Xét nghiệm Fibrinogen

(1 / 5)

Các xét nghiệm Fibrinogen

Giới thiệu

Các khiếm khuyết fibrinogen có thể định lượng (giảm hoặc tăng fibrinogen) hoặc chỉ định tính (rối loạn tiêu sợi huyết). Rối loạn chức năng Fibrinogen di truyền hiếm gặp nhưng các khiếm khuyết mắc phải thường gặp hơn, đặc biệt là trong bệnh lý của gan, khi phân tử Fibrinogen bị glycosyl hóa quá mức làm suy giảm hoạt động của nó. Fibrinogen cũng có thể giảm trong bệnh gan do giảm tổng hợp. Tăng các sản phẩm phân hủy Fibrin (FDP) cũng làm giảm quá trình chuyển đổi Fibrinogen thành Fibrin.

Fibrinogen là xét nghiệm quan trọng cần được thực hiện khi bệnh nhân có chảy máu hoặc APTT, PT kéo dài không giải thích được. Fibrinogen tăng cao có thể tương quan với việc tăng nguy cơ huyết khối trong các nghiên cứu dịch tễ học mặc dù ý nghĩa ở từng bệnh nhân là không rõ ràng.

Cấu trúc fibrinogen bao gồm ba cặp chuỗi polypeptide: hai chuỗi Aα, hai chuỗi Bβ và hai chuỗi γ. Chúng được liên kết với nhau bằng 29 liên kết disulfide tạo thành các miền D và E đặc trưng cho Fibrinogen.

Structure of the Fibrinogen Molecule. A structure of the fibrinogen... | Download Scientific Diagram

Thrombin [Yếu tố IIa] hoạt hoá Fibronogen bằng cách phân cắt hai peptit ngắn từ vùng đầu N của chuỗi Aα và Bβ – những peptit này được gọi là Fibrinopeptide A [FpA] và Fibrinopeptide B [FpB]. Việc loại bỏ FpA và FpB để lộ trình tự đầu cuối N mới trong chuỗi Aα và Bβ nằm trong miền E, được gọi là ‘núm’. Các nút này có thể tương tác tự phát với các vùng D-dimer để tạo thành các polyme Fibrin. Dưới ảnh hưởng của Yếu tố XIIIa, hình thành các liên kết chéo của các polyme Fibrin này .

Yếu tố XIIIa không cần thiết cho xét nghiệm Clauss Fibrinogen và do đó mức Fibrinogen sẽ bình thường kể cả khi thiếu Yếu tố XIII nặng.

Các xét nghiệm Fibrinogen

1/ Fibirinogen Clauss: Huyết tương bệnh nhân pha loãng sẽ đông tụ với nồng độ Thrombin cao [~ 100 U / mL].

Nguyên lý:

  1. Huyết tương thử nghiệm được pha loãng (thường là 1:10, có thể thay đổi nếu nồng độ Fibrinogen rất thấp hoặc rất cao) để giảm thiểu tác dụng của ‘các chất ức chế’ trong huyết tương, v.d. heparin, tăng FDPs.
  2. Việc sử dụng nồng độ Thrombin cao (thường là 100 U / ml) đảm bảo rằng thời gian đông máu không phụ thuộc vào nồng độ Thrombin.
  3. Cần xây dựng đường chuẩn bằng cách sử dụng huyết tương tham chiếu với các nồng độ pha loãng (1: 5 –1: 40). Thời gian đông máu của mỗi nồng độ pha loãng này được thiết lập và được vẽ trên đồ thị Log-Log. Nồng độ 1:10 được coi là 100% tức là bình thường. Cần có mối tương quan tuyến tính giữa thời gian đông máu trong vùng 10-50 giây.
  4. Huyết tương thử nghiệm nghèo tiểu cầu (pha loãng 1:10) được ủ ở 37 ° C, thêm Thrombin (tất cả đều được làm ấm trước đến 37 ° C). Thời gian hình thành cục máu đông được so sánh với đường chuẩn và suy ra nồng độ Fibrinogen. Các mẫu thử nghiệm có thời gian đông máu nằm ngoài phần tuyến tính của đường chuẩn phải được thử nghiệm lại bằng cách sử dụng các dung dịch pha loãng khác nhau.

2/ Xét nghiệm Fibrinogen nội suy từ PT được xác định bằng sự thay đổi mật độ quang trên một loạt các dung dịch pha loãng huyết tương có mức Fibrinogen đã biết. Sự thay đổi quang học trên từng mức Fibrinogen khác nhau được vẽ dưới dạng đường chuẩn. Xét nghiệm PT được thực hiện trên huyết tương nghèo tiểu cầu của bệnh nhân và Fibrinogen nội suy từ sự thay đổi mật độ quang học so với đường chuẩn.

Fibrinogen nội suy là một xét nghiệm đơn giản, rẻ tiền và được sử dụng rộng rãi. Tuy nhiên, xét nghiệm có thể cho kết quả sai lệch trong một số rối loạn và không được khuyến khích sử dụng trong phòng thí nghiệm thông thường.

3/ Xét nghiệm miễn dịch

Các xét nghiệm hấp thụ miễn dịch liên kết với enzym (ELISA), điện di và miễn dịch phóng xạ là những xét nghiệm thường được sử dụng nhất.

Các xét nghiệm miễn dịch thường đo nồng độ protein hơn là hoạt động chức năng.

Chúng có giá trị trong việc điều tra rối loạn đông máu bẩm sinh khi không có sự thống nhất giữa hoạt động chức năng và nồng độ kháng nguyên.

4/ Gravimetric Assay

a) Trọng lượng cục đông (Clot Weight)

Tương tự như phương pháp Clauss: Cục máu đông Fibrinogen được hình thành bằng cách bổ sung Thrombin và canxi vào huyết tương bệnh nhân đã được pha loãng. Tuy nhiên, thay vì sử dụng thời gian hình thành cục máu đông để suy ra Fibrinogen, cục máu đông được nén lại (để loại bỏ huyết tương và thuốc thử còn thừa), rửa sạch, làm khô sau đó cân. Xét nghiệm này khó về mặt kỹ thuật, tốn thời gian và hiếm khi được thực hiện trong hầu hết các phòng thí nghiệm hiện đại.

b) Protein đông đặc (Clottable protein)

Thrombin được thêm vào huyết tương mà không có canxi và cục máu đông tạo thành được rửa sạch sau đó được hòa tan trong thuốc thử kiềm, sau đó thực hiện phép đo quang phổ (ví dụ: độ hấp thụ thường ở 282nm). Cục máu đông gần như hoàn toàn là Fibrin và do đó nồng độ protein đo được được coi là tương đương với nồng độ Fibrinogen.

5/ TEG & ROTEM

Máy TEG và ROTEM cũng có thể được sử dụng để cung cấp chỉ báo định tính về nồng độ Fibrinogen

Hướng dẫn lựa chọn phương pháp

  • Chẩn đoán các rối loạn chảy máu di truyền: Fibrinogen Clauss hoặc Clottabe protein hoặc xét nghiệm miễn dịch
  • Chẩn đoán các rối loạn chảy máu mắc phải: Fibrinogen Clauss
  • Nghi ngờ rối loạn chức năng Fibrinogen: Fib Clauss và Clottabe protein hoặc xét nghiệm miễn dịch
  • Rối loạn chảy máu ảnh hưởng đến các yếu tố ngoài Fibrinogen (ví dụ: DIC): Fib Clauss
  • Tăng Fibrinogen: Fib Clauss hoặc xét nghiệm miễn dịch
  • Điều trị tiêu sợi huyết: Fib Clauss

Biện luận kết quả Fibrinogen

1/ Mức độ fibrinogen giảm trong:

  • DIC do tiêu thụ các yếu tố đông máu
  • Bệnh gan do giảm tổng hợp. Fibrinogen bất thường cũng có thể được tìm thấy ở những bệnh nhân bị bệnh gan do hàm lượng axit sialic bất thường (tăng).
  • Truyền máu ồ ạt dẫn đến rối loạn đông máu do pha loãng
  • Những khiếm khuyết di truyền, ví dụ: Thiếu hụt Fibrinogen, afibrinogena huyết và bất thường chức năng [thường giảm cả nồng độ Fibrinogen cũng như hoạt động]
  • Điều trị tiêu huyết khối
  • Ở một số bệnh nhân sau khi điều trị bằng asparaginase
  • Tăng tiêu sợi huyết tiên phát. Điều này đã được báo cáo ở những người bị ung thư biểu mô tuyến tiền liệt và các bệnh ung thư khác.

2/ Nồng độ fibrinogen tăng lên trong:

  • Theo tuổi, tuổi cao thì Fibrinogen tăng
  • Giới nữ, mang thai, dùng thuốc tránh thai đường uống
  • Ở phụ nữ sau mãn kinh
  • Phản ứng giai đoạn cấp tính
  • Bệnh ác tính lan tỏa [nhưng cũng có thể giảm nếu điều này kết hợp với DIC]

3/ Dải tham chiếu Fibrinogen: 1,5-4,0g / L

4/ Xét nghiệm gì tiếp theo nếu Fibronogen bất thường:

  • Nồng độ Fibrinogen thường được giải thích cùng các xét nghiệm đông máu khác như Thời gian Prothrombin (PT) và Thời gian APTT.
  • Nếu xét nghiệm Clauss Fibrinogen giảm đáng kể, cả APTT và PT sẽ bị kéo dài. Cần loại trừ các rối loạn Đông máu nội mạch lan tỏa [DIC] trước khi nghĩ tới bệnh của riêng Fibrinogen.
  • Ngược lại, nếu APTT và PT kéo dài nhưng xét nghiệm Fibrinogen bình thường, thì xét nghiệm yếu tố đông máu và Mixtest cần được thực hiện.
  • Nếu nồng độ Fibrinogen giảm nhưng không giải thích được và có bối cảnh lâm sàng thích hợp (ví dụ tiền sử gia đình bị chảy máu tạng, vết thương chậm lành, chảy máu cuống rốn) thì có thể cần thực hiện xét nghiệm Fibrinogen miễn dịch để xác định xem bệnh nhân có giảm hoặc giảm và rối loạn chức năng Fibrinogen hay không. Nếu xét nghiệm kháng nguyên Fibrinogen không có sẵn, thì tỷ lệ Fibrinogen nội suy từ PT/ Fib Clauss có thể được thực hiện để hỗ trợ chẩn đoán.

5/ Phân loại rối loạn Fibrinogen bẩm sinh

Bất kỳ cá nhân nào bị nghi ngờ thiếu hụt Fibrinogen di truyền đều nên thực hiện các xét nghiệm phân tử để xác định đặc điểm của một bất thường di truyền tiềm ẩn.

  • Afibrinogenaemia
  1. Afibrinogenaemia: chảy máu hoặc không triệu chứng
  2. Afibrinogenaemia + kiểu hình huyết khối: biểu hiện huyết khối
  • Hypofibrinogenaemia
  1. Nặng: <0,5 g / L
  2. Vừa phải: 0,5 – 0,9 g / L
  3. Nhẹ: 1 g / L – giới hạn dưới của dải tham chiếu
  4. + Bệnh dự trữ fibrinogen: + Bằng chứng về sự tích tụ Fibrin của tế bào gan
  • Dysfibrinogenaemia
    1. Dysfibrinogenaemia: Kiểu hình không có triệu chứng hoặc chảy máu. Kiểu hình huyết khối không đáp ứng các tiêu chuẩn cho type 3B.
    2. Dysfibrinogenaemia + Kiểu hình huyết khối: Rối loạn chức năng fibrinogen có liên quan đến đột biến gây huyết khối.
  • Hypo-dysfibrinogenaemia
  1. Nặng: Fibrinogen Ag <0,5 g / L
  2. Vừa phải: Fibrinogen Ag 0,5 – 0,9 g / L
  3. Fibrinogen Ag nhẹ: Fibrinogen Ag 1 g / L tới giới hạn dưới của dải tham chiếu

BÌNH LUẬN

Please enter your comment!
Please enter your name here